Nước thải axit thường có trong dây chuyền công nghệ sản xuất của các ngành công nghiệp như: công nghiệp nhẹ, công nghiệp vật liệu và công nghiệp hóa chất. Thí dụ: nước thải của công nghệ cán thép, xí nghiệp sản xuất thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, dược phẩm đều chứa axit sunfuric, axit nước, axit clohydric.
Nước thải chứa axit mạnh như: axit clohydric (HCl), axit nước (HNO3) các muối canxi của chúng dễ tan trong nước.
Nước thải chứa axit mạnhnhư axit sunfuric (H2SO4) axit cacbonic (H2CO3)
các muối canxi của chúng khó tan trong nước.
– Nước thải chứa các axit yếu như axit acetic (CH3COOH).
Phương pháp chủ yếu để xử lý nước thải chứa axit là phương pháp trung hòa. Khi trung hoà nước thải chứa axit mạnh, các muối của chúng khó tan trong nước sẽ bị kết tủa và lắng cặn.
Phương pháp này là một trong những phương pháp thường được dùng để xử lý nước thải chứa axit. Lớp đá vôi có thể coi như một lớp đệm có hoạt tính hoá học. Phản ứng hoá học xảy ra liên tục khi lớp đệm còn hoạt tính hoá học. Phản ứng xảy ra ở các tâm hoạt hoá theo phản ứng:
CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + H2CO3
Vật liệu lớp đệm ngoài đá vôi CaCO3 còn có thể dùng magiê cacbonat
MgCO3 đá đôlômit v.v…
Tính toán lượng đá vôi thích hợp và duy trì tính hoạt hoá của nó phải dựa vào các yếu tố.
– Lượng nước thải cần xử lý
– Chất lượng nước thải cần xử lý
– Độ hoạt hoá của lớp đệm
– Kích thước của các hạt trong lớp đệm
– Chế độ thuỷ động trong tháp trung hòa.
Nhược điểm:
Tính hoạt hoá của lớp đá cũng bị giảm đòi hỏi phải thay bằng lớp mới. Chu kỳ thay lớp đá vôi phụ thuộc vào lượng và chất lượng của nước thải cần xử lý.
Nếu nước thải có nồng độ axit lớn hoặc chứa các chất hữu cơ sẽ xuất hiện hiện tượng tạo bọt làm giảm hiệu suất quá trình xử lý.
Vôi thường được dùng trung hoà nước thải chứa axit dưới dạng bột như cacbonat canxi CaCO3, cacbonat magiê MgCO3 dạng vôi bột hay sữa vôi của hydroxyt canxi Ca(OH)2. Đây là tác nhân trung hoà rẻ tiền và dễ kiếm.
Phản ứng xảy ra với nước thải có chứa axit sunfuric: CaCO3 + H2SO4 → CaSO4 + H2CO3 – Q
hoặc Ca(OH)2 + H2SO4 → CaSO4 + 2H2O – Q
Sử dụng vôi tôi hay sữa vôi thường hay gặp hiện tượng đóng rắn tạo thành bờ ở các cửa nạp vôi vào thiết bị trung hòa vì khi hydroxit canxi Ca(OH)2 gặp không khí sẽ tác dụng với CO2 tạo thành CaCO3, CaCO3 sẽ đóng rắn và làm giảm lưu lượng cũng như tắc đường ống.
Theo Nelson để trung hoà nước thải chứa axit sunfuric và axit nước có nồng độ 1,5% dùng đá đôlômit nung với thành phần của nó gồm 47,5% CaO, 34,3% MgO và 1,8% CaCO3. Loại đá này có ưu điểm hơn các loại đá vôi khác là giữ lại lượng sunphat dư rất nhỏ và như vậy tránh được hiện tượng lắng cặn trong thiết bị phản ứng.
Trung hoà nước thải chứa axit bằng xút hoặc sôđa sẽ nhanh và hiệu quả. Nếu nước thải chứa axit cacbonic và axit sunfuric phản ứng sẽ xảy ra như sau:
2 NaOH + H2CO3 → Na2SO4+ 2H2O Na2CO3 + H2CO3 → 2NaHCO3
hay NaOH + H2SO4 → NaHSO4 + H2O NaHSO4 + NaOH → Na2SO4 + H2O
Xử lý nước thải chứa axit bằng xút hay bằng sôđa có ưu điểm:
Xử lý nhanh và càng có hiệu quả khi lượng nước thải cần xử lý nhỏ. Khi đó không cần phải thiết bị xử lý chứa kiềm mà chỉ cần tính lượng cần thiết và đưa vào trộn với nước thải ở đầu ống hút của bơm nước thải. Nếu lượng nước cần xử lý lớn người ta có thể thực hiện phản ứng theo phương thức gián đoạn hay liên tục trong các thiết bị phản ứng. Xút được chứa trong bể riêng và được nạp vào thiết bị phản ứng theo từng mẻ (phương thức gián đoạn) hay liên tục (phương thức liên tục) nhờ bơm đa tốc độ. Nước thải cần xử lý được đưa vào thiết bị phản ứng, trong đó axit chứa trong nước thải tham gia phản ứng với xút tạo thành muối và nước.
Sản phẩm của phản ứng phần lớn ở dạng tan và không làm tăng độ cứng của nguồn nước tiếp nhận.
– Tuy nhiên axit và sôđa là những hoá chất đắt hơn các tác nhân trung hoà khác như vôi nên phương pháp này thường được dùng khi có xút và sôđa là những phế liệu của một công nghệ khác.